Chế tài xử lý tin giả trên mạng xã hội và phương hướng hoàn thiện pháp luật
Trong phạm vi bài viết, các tác giả phân tích làm rõ những hạn chế còn tồn tại trong pháp luật xử lý tin giả trên mạng xã hội từ đó đưa ra những kiến nghị mang tính hoàn thiện pháp luật xử lý tin giả trên mạng xã hội trên các phương diện về cơ sở xử lý và chế tài áp dụng.
Đặt vấn đề
Tin giả trên mạng xã hội đã và đang là vấn đề nhức nhối của xã hội trước những tác hại khôn lường mà nó gây ra. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật xử lý tin giả trên mạng xã hội là vấn đề đặt ra cấp bách hiện nay.
Việt Nam là một trong số những nước có tốc độ phát triển nhanh về các nền tảng mạng xã hội. Theo thống kê: đến tháng 02/2022, có 76.95 triệu người dùng mạng xã hội ở Việt Nam, số lượng người dùng mạng xã hội ở Việt Nam vào đầu năm 2022 tương đương 78.1% dân số, trong đó người dùng Facebook là 70.4 triệu người[1]. Với tính chất đặc thù như dễ xóa dấu vết, khó xác định danh tính của người sử dụng trên mạng xã hội dẫn tới tình trạng phát tán tin giả trên mạng xã hội với con số đáng báo động và đang diễn biến phức tạp theo chiều hướng gia tăng. Trong đó “các nền tảng mạng xã hội có lượng người sử dụng lớn như Facebook, Youtube, TikTok, Zalo... đang là môi trường phát tán tin giả, thông tin xấu, độc phổ biến nhất. Năm 2020, Google thống kê Việt Nam đứng top 10 các nước có số lượng thông tin vi phạm chính sách bị yêu cầu xử lý”[2]. Nhận thức được những tác hại khôn lường của tin giả, pháp luật đã có những quy định cụ thể về xử lý tin giả trên mạng xã hội với nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn thì hệ thống các văn bản pháp luật này đã bộc lộ một số hạn chế nhất định trong việc xử lý tin giả trên mạng xã hội như: các văn bản pháp luật hiện hành chưa có định nghĩa chính xác thế nào là tin giả; chưa có sự thống nhất, rõ ràng trong việc quy định về hành vi bị xử lý về tin giả trên mạng xã hội cũng như chủ thể bị xử lý chưa thống nhất. Ngoài ra, trong pháp luật hình sự, hành chính cũng tồn tại những hạn chế riêng như: hành vi vi phạm còn có sự trùng lặp trong cấu thành tội phạm của các tội danh khác nhau, chế tài chưa sát và chưa có chế tài mang tính khắc phục hậu quả đối với tin giả trên mạng xã hội, sự mâu thuẫn trong hệ thống văn bản pháp luật về việc xử lý tin giả, chế tài hành chính còn nhẹ, chưa có sự phân hóa hành vi và biện pháp khắc phục hậu quả chưa giải quyết được vấn đề hậu quả của tin giả. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả nghiên cứu và đề xuất những giải pháp cần thiết nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật xử lý tin giả trên mạng xã hội.
1. Hoàn thiện các quy định pháp luật là cơ sở xử lý vi phạm
Thứ nhất, quy phạm hóa khái niệm tin giả
Một trong những bất cập hiện nay của pháp luật về xử lý tin giả trên mạng xã hội chính là mới chỉ đưa thuật ngữ tin giả vào trong chế định, mà chưa có quy phạm quy định thế nào là tin giả một cách toàn diện, đầy đủ, do đó, không có cơ sở để xác định thế nào là tin giả trên mạng xã hội. Thuật ngữ “thông tin giả mạo” xuất hiện 8 lần trong Nghị định số 15/2020/NĐ-CP, tuy nhiên, ngay cả trong nghị định hay các văn bản pháp luật khác như Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Báo chí năm 2016 và các văn bản trong lĩnh vực thông tin, truyền thông khác, đều chưa đề cập tới khái niệm của tin giả. Ngoài ra, trong Luật An ninh mạng năm 2018 cũng chỉ đề cập tới thuật ngữ “thông tin sai sự thật” hai lần, mà không có bất kỳ đề cập nào tới tin giả, hay hành vi liên quan tới tin giả. Từ đó, ngay chính trong quy định của pháp luật cũng đang không đồng nhất về phạm vi đối tượng thông tin bị xử lý.
Đây là một bất cập vô cùng lớn, gây khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm trên thực tế. Không có định nghĩa cụ thể, các chủ thể xử lý không thể xác định được thông tin như thế nào là tin giả để xử lý, các chủ thể trong xã hội không biết được thông tin mình đưa ra có phải tin giả hay không để xác định được hành vi của mình có hợp pháp hay không, có chịu sự điều chỉnh của pháp luật về xử lý tin giả hay không? Hơn hết, trên nền tảng mạng xã hội, lượng thông tin vô cùng lớn với các loại hình khác nhau, từ ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, tới hình ảnh, video thì việc không có cơ sở để xác định thế nào là tin giả một cách thống nhất là một trở ngại vô cùng lớn trong quá trình xử lý. Mặt khác, khi không có cơ sở pháp lý vững chắc là tiền đề để đánh giá hành vi của các chủ thể trong xã hội, thì tình trạng áp dụng pháp luật một cách tùy tiện, áp dụng pháp luật thiếu thống nhất trong xử lý hành vi vi phạm là tất yếu nảy sinh. Ngoài ra, ngay cả trong nghiên cứu học thuật, thì khái niệm và các đặc điểm của tin giả vẫn còn là một vấn đề tranh cãi với nhiều quan điểm khác nhau tất yếu dẫn tới sự không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật.
Từ những lý do trên, chúng tôi đề xuất cần quy phạm hóa khái niệm tin giả vào văn bản quy phạm pháp luật liên quan để đưa ra cách hiểu thống nhất về tin giả và có tính áp dụng phổ biến, thống nhất trên thực tế. Khi quy phạm hóa khái niệm tin giả, thì các chủ thể quản lý nhà nước và người dân có thể nhận diện được thế nào là tin giả và các dạng của tin giả, từ đó có hành vi phù hợp. Khái niệm đưa ra phải bao quát hết được các đặc điểm pháp lý của tin giả về tính sai lệch, tính thiệt hại, tính cố ý và tính phát tán của tin giả. Ngoài ra, trong quy phạm này cũng khái quát các dạng tồn tại của tin giả trong thực tế xã hội. Tuy nhiên, việc khái quát này cũng phải quy định mở để tránh bỏ lọt những thông tin mang bản chất của tin giả nhưng lại không bị xử lý. Quy phạm này cần được quy định trong một văn bản có hiệu lực pháp lý cao, mang tính căn bản từ đó làm cơ sở cho các văn bản khác tiến hành quy định các hành vi vi phạm để tiến hành xử lý.
Đồng thời, nhóm tác giả đề xuất bổ sung quy định về khái niệm tin giả vào Luật An ninh mạng năm 2018 tại Điều 2 giải thích từ ngữ như sau: “Tin giả là thông tin được tạo ra có sự sai lệch một phần hoặc toàn bộ nội dung thông tin và được phát tán trong xã hội, có khả năng gây ra thiệt hại hoặc được đưa ra với mục đích gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân và các chủ thể khác trong xã hội. Tin giả tồn tại dưới các dạng như thông tin xuyên tạc, sai sự thật, thông tin gây nhầm lẫn và các dạng khác theo quy định”.
Định nghĩa này đã khái quát được các đặc điểm mang tính chất pháp lý của tin giả, định hình được những đặc tính cơ bản của tin giả trên thực tế. Ta có thể thấy một cách khái quát các đặc điểm cơ bản của tin giả qua định nghĩa trên như tính sai lệch ở phạm vi một phần hay toàn bộ nội dung thông tin, tính gây thiệt hại ở mục đích hoặc khả năng gây ra thiệt hại cho các chủ thể trong xã hội bị tác động, tính cố ý trong việc tạo ra tin giả và tính được phát tán và lan truyền tin giả có chủ ý trong đời sống xã hội. Đó là những đặc điểm bao quát được phạm vi các đối tượng thông tin cần được xử lý là tin giả trên thực tế xã hội, cũng như nó đã được khái quát một cách dễ hiểu, trọn vẹn những đặc điểm mà một tin giả có.
Ngoài ra, việc bổ sung quy định này vào Luật An ninh mạng cũng thỏa mãn yếu tố cơ sở của văn bản pháp luật khi Luật An ninh mạng là văn bản quy định trực tiếp các vấn đề liên quan tới không gian mạng, lĩnh vực viễn thông, mang tính khởi nguồn cho các quy định xử lý tin giả trên mạng xã hội ở các văn bản pháp lý khác.
Thứ hai, quy phạm hóa quy định về việc định tội danh trong trường hợp hành vi vi phạm thỏa mãn cấu thành của nhiều tội
Hiện nay, vẫn còn tồn tại tình trạng một hành vi thỏa mãn cấu thành của nhiều tội xảy ra ở các hành vi đối với tin giả. Tiêu biểu là hành vi “vu khống” trong tội vu khống và hành vi “làm nhục” trong tội làm nhục người khác. Các hành vi đối với tin giả mà có mục đích xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác hoặc gây thiệt hại cho người khác, thì thỏa mãn cấu thành tội vu khống. Tuy nhiên, bất kỳ hành vi nào xúc phạm nghiêm trọng danh dự nhân phẩm của người khác thì thỏa mãn hành vi làm nhục. Như vậy, với khách thể là danh dự, nhân phẩm, uy tín thì hai cấu thành tội phạm trên có sự giao thoa nhau vìđều với mục đích xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác, vừa thỏa mãn hành vi làm nhục (lỗi cố ý là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm), nhưng cũng vừa thỏa mãn dấu hiệu của tội vu khống khi hành vi đăng tải, phát tán tin giả có mục đích xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín. Như vậy, khi đăng tải, phát tán tin giả vừa có mục đích, vừa có hậu quả xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín, thì bị xử lý theo tội nào? Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn vấn đề này tại Công văn số 233/TANDTC-PC ngày 01/10/2019 về việc trao đổi nghiệp vụ. Cụ thể nội dung hướng dẫn như sau: “Trường hợp người thực hiện 01 hành vi nhưng thỏa mãn dấu hiệu cấu thành của nhiều tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nặng hơn” (Mục 2). Hướng dẫn trên, cho thấy, trong trường hợp này, khi thỏa mãn hành vi của cả tội vu khống và tội làm nhục người khác thì sẽ bị xử lý về tội nặng hơn là tội vu khống. Nhưng một vấn đề đặt ra là, Công văn này không phải một văn bản quy phạm pháp luật, nên chỉ có giá trị áp dụng trong hệ thống Tòa án mà các cơ quan tiến hành tố tụng khác không phải tuân theo, dẫn tới tình trạng không thống nhất khi áp dụng pháp luật. Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi đề xuất, nên xây dựng một thông tư liên tịch giữa các bộ, ngành có liên quan để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Hoặc, TANDTC nghiên cứu xây dựng và phát triển một án lệ có nội dung hướng dẫn vấn đề trên, từ đó có thể thống nhất áp dụng pháp luật trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, thống nhất các quy định về hành vi bị xử lý trong hệ thống pháp luật xử lý tin giả trên mạng xã hội
Thực tế cho thấy, đang có sự không thống nhất về hành vi bị xử lý đối với tin giả trên mạng xã hội giữa các văn bản quy phạm pháp luật với nhau, từ đó, ảnh hưởng nghiêm trọng tới công tác áp dụng pháp luật xử lý vi phạm. Cụ thể như: hành vi “đăng tải” tin giả là hành vi bị cấm trong Luật An ninh mạng năm 2018 nhưng lại không phải là hành vi bị xử lý hành chính trong Nghị định số 15/2020/NĐ-CP; hành vi “lưu trữ” tin giả của tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội lại không phải hành vi bị cấm trong Luật An ninh mạng nhưng lại bị xử lý hành chính theo Nghị định số 15/2020/NĐ-CP và ngược lại hành vi “cung cấp” tin giả bị xử lý hành chính nhưng lại không phải là hành vi bị cấm; hành vi “lưu trữ” có thể xử phạt hành chính với tổ chức nhưng có thể xử lý hình sự đối với tổ chức theo quy định của BLHS nhưng ngược lại hành vi “làm” tin giả thì tổ chức bị xử lý hình sự, nhưng không phải chịu chế tài hành chính. Như vậy với sự không thống nhất về mặt hành vi bị xử lý thì tất yếu hoạt động áp dụng pháp luật sẽ bị hạn chế rất nhiều, đặc biệt trong vấn đề bỏ lọt hành vi vi phạm không bị xử lý. Trên cơ sở đó, để khắc phục những hạn chế trên chúng tôi đề xuất thống nhất các hành vi bị xử phạt đối với tin giả như sau:
Một là, quy định xử lý hành chính với hành vi “đăng tải” tin giả lên mạng xã hội, “làm” tin giả trong Nghị định số 15/2020/NĐ-CP, theo đó, nhóm tác giả đề xuất sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 101 thành: “1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau:
a) Làm, cung cấp, đăng tải, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; …
d) Làm, cung cấp, đăng tải, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc”.
Với quy định trên, ta đã khắc phục được vấn đề về chế tài xử lý đối với hành vi đăng tải tin giả trên mạng xã hội, phù hợp với tính chất vi phạm trong Luật An ninh mạng năm 2018, đồng thời góp phần, hoàn thiện chế tài xử lý theo hướng căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi “làm” tin giả, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cá nhân, tổ chức, gây hoang mang trong Nhân dân. Hành vi “làm” tin giả đã có đủ chế tài theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi đó là: phải chịu trách nhiệm dân sự nếu xảy ra thiệt hại, chịu trách nhiệm hành chính nếu đủ điều kiện và phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm. Trách nhiệm dân sự cũng không còn mâu thuẫn trong việc xác định cơ sở của hành vi trái pháp luật trong các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Hai là, quy định các hành vi vi phạm đối với tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội trong Luật An ninh mạng. Như đã nêu, Luật An ninh mạng năm 2018 không có quy định nào về việc xử lý hành vi “chủ động lưu trữ” tin giả đối với tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội nhưng hành vi này thực chất lại bị xử lý hành chính, hình sự. Bên cạnh đó, Luật An ninh mạng năm 2018 chỉ quy định các hành vi sử dụng mạng xã hội bị cấm mà tại Nghị định số 15/2020/NĐ-CP thì hai chủ thể sử dụng và thiết lập là khác nhau. Vì vậy chủ thể thiết lập mạng xã hội thực chất không vi phạm về mặt “lưu trữ” đối với tin giả theo Luật An ninh mạng năm 2018. Như vậy, cần phải bổ sung quy định để kịp thời điều chỉnh nhóm đối tượng này trong Luật An ninh mạng hiện hành để thống nhất về tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật. Quy định này sẽ bao gồm các hành vi bị cấm đối với chủ thể thiết lập mạng xã hội, văn bản pháp luật sẽ được thống nhất từ trên xuống dưới. Đó cũng là tiền đề để chế tài hành chính có cơ sở để xác định dấu hiệu phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại với hành vi trái pháp luật.
Ba là, đồng bộ hóa phạm vi bị xử lý của hành vi vi phạm. Hiện nay, với sự sửa đổi của Nghị định số 14/2022/NĐ-CP đối với Nghị định số 15/2020/NĐ-CP thì chế tài hành chính đã mở rộng thêm việc xử phạt hành vi vi phạm trên các trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội. Ta có thể thấy,các trang thông tin điện tử không phải mạng xã hội, nhưng trong số đó lại có các trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội, sinh ra từ mạng xã hội và sự phát triển của nó gắn liền với mạng xã hội. Từ đó đã có chế tài xử lý hành chính đối với các hành vi nảy sinh trên nền tảng này tuy hiện nay chế tài hình sự lại chưa đề cập đến. Vì vậy, đề nghị bổ sung phạm vi xử lý là các trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội vào Luật An ninh mạng, BLHS để thống nhất trong việc xử lý hành vi vi phạm.
Bốn là, mở rộng các tội danh mà chủ thể là tổ chức trong lĩnh vực mạng xã hội phải chịu. Theo quy định trong Nghị định số 15/2020/NĐ-CP thì có hai diện đối tượng bị xử lý đối với các hành vi liên quan tới tin giả trên mạng xã hội đó là các tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội và các đối tượng sử dụng mạng xã hội được quy định tại Điều 100 và 101 của Nghị định.
Ta có thể thấy, về mặt chế tài hành chính thì đối tượng bị xử lý bao gồm cả chủ thể cung cấp dịch vụ mạng xã hội là tổ chức, doanh nghiệp và các chủ thể sử dụng mạng xã hội bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Mà theo quy định của BLHS năm 2015 quy định về chế tài hình sự đối với tin giả trên mạng xã hội thì chủ thể của tội phạm trong pháp luật hình sự là cá nhân và pháp nhân thương mại trong một số tội cụ thể. Theo quy định thì trong các tội danh có tính chất xử lý tin giả trên mạng xã hội được quy định tại các điều 117, 156, 174, 288 và 331,… thì không có tội nào mà pháp luật quy định có chủ thể tội phạm là pháp nhân thương mại. Đặc biệt với cấu thành tội phạm quy định tại Điều 117 có quy định về hành vi “làm, tàng trữ, phát tán” tin giả với những mục đích khác nhau sẽ có thể bị xử lý về tội quy định tại Điều 117 BLHS năm 2015 nhưng chủ thể của tội phạm này chỉ là cá nhân, vì Điều 117 không thuộc một trong các điều mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 76[3] BLHS năm 2015. Mà căn cứ vào Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP cụ thể là tại điểm a, d khoản 3 Điều 101 thì cũng với hành vi “chủ động lưu trữ, truyền đưa” tin giả thì chủ thể bị xử lý là tổ chức, doanh nghiệp. Như vậy, ta có thể thấy có sự không nhất quán về mặt chủ thể bị xử lý đối với cùng một hành vi vi phạm trong các chế tài với nhau.
Chế tài hình sự là mức nghiêm khắc hơn chế tài hành chính nhưng cùng một hành vi thì ở hành chính chủ thể này bị xử lý nhưng ở hình sự thì không và ngược lại. Cụ thể với hành vi lưu trữ thì ở chế tài hành chính tổ chức, doanh nghiệp bị xử lý nhưng không có chế tài hình sự xử lý, nhưng với hành vi “làm” thì tổ chức cũng có thể làm tin giả nhưng lại không bị chế tài hành chính xử lý mà có thể phải chịu chế tài hình sự. Đây là một bất cập về tính thống nhất về mức độ nguy hiểm của hành vi. Hành vi ít nguy hiểm thì bị xử lý hình sự còn hành vi nguy hiểm hơn thì không bị xử lý hình sự. Cùng là hành vi lưu trữ, phát tán tin giả với mục đích gây hoang mang trong nhân dân nhưng với chế tài hành chính thì bị xử lý còn chế tài hình sự thì không. Đây là một quy định bỏ lọt tội phạm khi mà rõ ràng tổ chức cũng có thể thực hiện hành vi như vậy nhưng chỉ bị xử lý hành chính vì cấu thành của Điều 117 chỉ áp dụng cho cá nhân phạm tội. Do đó chúng tôi đề xuất sửa đổi BLHS năm 2015 theo hướng với tội danh quy định tại Điều 117 thì tổ chức thiết lập mạng xã hội cũng là một chủ thể của tội phạm, từ đó có sự thống nhất trong hành vi và chủ thể bị xử lý giữa hai loại chế tài.
Thứ tư, sửa đổi quy định tại Điều 331 BLHS năm 2015
Thực tế cho thấy trong cấu thành tội phạm của tội danh quy định tại Điều 288 và Điều 331 BLHS năm 2015 có sự giao thoa nhau. Như đã biết, tin giả hay các hành vi liên quan tới tin giả là một phương diện trong quyền tự do ngôn luận, đó là quyền tự do bày tỏ ý kiến, tiếp cận thông tin của con người, tuy nhiên khi thực hiện nó lại trái với quy định của pháp luật về việc tổ chức thực hiện quyền nên mới coi là tin giả và bị xử lý. Qua đó tin giả và các hành vi liên quan tới tin giả là một bộ phận có tính sai phạm của quyền tự do ngôn luận. Theo cấu thành trong tội danh quy định tại Điều 288 BLHS năm 2015 thì các thông tin trong cấu thành là tin giả, là những thông tin có tính trái pháp luật còn cấu thành trong tội danh quy định tại Điều 331 BLHS năm 2015 lại nêu ra tính lợi dụng quyền tự do ngôn luận nói chung.
Như vậy có thể thấy, phạm vi đối tượng thông tin của tội danh quy định tại Điều 331 bao hàm phạm vi thông tin của tội danh quy định tại Điều 288. Đối tượng thông tin quy định tại Điều 288 có tính chất cụ thể hơn, chi tiết hơn khi nó thêm dấu hiệu có tính trái pháp luật, tính giả trong thông tin. Vậy ta có thể thấy xử lý tin giả và các hành vi với tin giả trong hai tội danh trên đây là một cặp quy phạm chung riêng, trong đó Điều 331 là quy phạm chung và Điều 288 là quy phạm riêng có tính chi tiết, cụ thể hơn. Đây là một bất cập trong việc định tội danh trong quá trình xử lý hành vi vi phạm khi chúng thỏa mãn cấu thành của cả hai tội danh và hai tội danh này có mức hình phạt tương đương nhau.
Để giải quyết vấn đề này, trên thực tế đã có một nguyên tắc định tội danh được đưa ra mà chúng tôi gọi đó là nguyên tắc “quy phạm riêng” với nội dung “nguyên tắc định tội danh để xác định TNHS là quy phạm pháp luật riêng, hành vi thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu riêng và thể hiện đúng bản chất nhất của hành vi”. Tức là khi một hành vi cấu thành hai tội danh mà không có sự cạnh tranh quy phạm pháp luật nhưng có yếu tố quy phạm chung riêng thì định tội theo quy phạm riêng. Vì vậy, trong trường hợp này ta định tội danh theo quy định tại Điều 288 BLHS năm 2015.
Tuy nhiên, nguyên tắc này chưa được quy phạm hóa trên thực tế nên chúng tôi đề xuất sửa đổi quy định tại Điều 331 BLHS năm 2015 theo hướng loại trừ trường hợp quy định tại Điều 288 BLHS năm 2015. Thực tế ngay chính tại Điều 288 BLHS năm 2015 các nhà lập pháp cũng đã áp dụng nguyên tắc này và thực hiện nó bằng việc quy định các trường hợp mang tính chất loại trừ quy phạm riêng đó là “nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điều 117, 155, 156 và 326 của Bộ luật này”. Các trường hợp quy định tại các Điều 117, 155, 156 và 326 chính là các quy phạm riêng.
Như vậy, chúng tôi đề xuất sửa đổi quy định tại Điều 331 BLHS năm 2015 như sau: “1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 288 của Bộ luật này thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Quy định như vậy sẽ giúp các chủ thể dễ dàng hơn trong quá trình định tội danh để xử lý hành vi vi phạm cũng như quy phạm hóa nguyên tắc “quy phạm riêng” trong định tội danh đối với xử lý tin giả trên mạng xã hội.
2. Hoàn thiện các quy định về chế tài áp dụng
Thứ nhất, quy định biện pháp khắc phục hậu quả “buộc cải chính công khai” trong các chế tài
Như đã biết, biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng đối với hành vi vi phạm đối với tin giả là buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật, gây nhầm lẫn, tuy nhiên với mỗi biện pháp này thì mới chỉ loại bỏ được tin giả trên mạng xã hội mà chưa thay đổi được nhận thức của những người đã tiếp nhận tin giả. Mạng xã hội là một nơi giao lưu và trao đổi thông tin giữa các chủ thể với số lượng người dùng, người truy cập vô cùng lớn, từ đó sự lan truyền và tiếp cận đối với tin giả là rất nhanh. Với việc gỡ bỏ tin giả, thì mới chỉ làm mất tin giả đã được đăng tải lên, còn các bài chia sẻ, sự tương tác và tiếp nhận thông tin vào nhận thức từ phía người dùng mạng xã hội thì chưa thể khắc phục và tin giả vẫn có thể được lan truyền ở những thời gian tiếp theo.
Xét tới các biện pháp tư pháp thì khi có thiệt hại về tinh thần thì một biện pháp mang tính chất khắc phục được áp dụng đó là công khai xin lỗi người bị hại[4]. Tuy nhiên, vấn đề công khai xin lỗi này đã khắc phục được toàn diện hậu quả hay chưa trong khi xin lỗi chỉ là “một hành động thể hiện sự hối tiếc hay hối hận” ? Mà hơn hết, tính gây hại của tin giả chính là sự tác động về mặt nhận thức cho đối tượng tiếp nhận thông tin hiểu sai về các vấn đề xảy ra trên thực tế, nên vấn đề là muốn khắc phục được hậu quả của tin giả trên mạng xã hội, thì nhất thiết phải tác động vào nhận thức của người tiếp nhận thông tin, làm họ có cái nhìn đúng đắn về sự việc. Đó chính là điều bức thiết cần quy định và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn”. Chỉ khi thông tin sai được cải chính bằng những thông tin đúng, các đối tượng tiếp nhận thông tin tiếp cận được với những thông tin chính xác loại bỏ những yếu tố sai lệch trong nhận thức của họ do tin giả gây ra. Chỉ khi yếu tố thật được truyền đạt tới đối tượng thì họ mới có thể thay đổi nhận thức, từ đó có cái nhìn đúng đắn về sự vật, hiện tượng.
Biện pháp khắc phục hậu quả này là một trong các biện pháp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Tuy nhiên, biện pháp này lại không được quy định trong Nghị định số 15/2020/NĐ-CP mà chỉ áp dụng biện pháp buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật, nên không thể áp dụng trên thực tế đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực này. Vì vậy, chúng tôi đề xuất bổ sung quy định về biện pháp khắc phục hậu quả này vào Điều 100, 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP như sau:
Khoản 5 Điều 100: “5. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc gỡ bỏ, buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Buộc thu hồi tên miền do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 Điều này”.
Khoản 3 Điều 101: “3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc gỡ bỏ, buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này”.
Đó là với chế tài hành chính, tuy nhiên với pháp luật hành chính cũng như pháp luật hình sự nói chung thì một hành vi chỉ bị xử lý một lần từ đó không thể lấy biện pháp khắc phục hậu quả của hành chính để áp dụng cho hình sự nếu như hành vi bị xử lý hình sự. Do đó, chúng tôi cho rằng pháp luật hình sự cũng cần bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả này vào hệ thống biện pháp tư pháp mang tính khắc phục hậu quả trong BLHS. Cụ thể, chúng tôi đề xuất sửa đổi Điều 46 BLHS năm 2015 như sau: điểm b khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 46 “Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi, buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn”.
Thứ hai, tăng mức phạt xử lý vi phạm hành chính và phân hóa trách nhiệm theo tính nghiêm trọng của hành vi
Như đã biết, hình thức xử phạt chính đối với hành vi vi phạm là phạt tiền với mức phạt cao nhất với cá nhân là 10.000.000 đồng và tổ chức là 20.000.000 đồng. Chúng tôi cho rằng, với mức xử phạt như vậy là chưa phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, chưa mang lại sức răn đe cho người vi phạm cũng như tính giáo dục với chính người vi phạm và người xung quanh. Với những hậu quả khôn lường về danh dự, nhân phẩm, uy tín của Nhà nước, cá nhân, tổ chức mà tin giả trên mạng xã hội đem lại thì mức phạt như vậy là chưa tương xứng. Ngày nay mạng xã hội có sức lan truyền thông tin rất nhanh, nguồn thông tin được tiếp cận hàng ngày là rất lớn, từ đó một tin giả được đưa ra hay lan truyền trên mạng xã hội thì sức tiếp cận, ảnh hưởng của nó là nhanh chóng và rộng rãi. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là rất cao khi mà tin giả được đăng tải và phát tán thì danh dự, nhân phẩm, uy tín của các chủ thể bị xâm hại nghiêm trọng và tình trạng “khủng bố” mạng sẽ có thể xảy ra từ đó gây ra những hậu quả đáng tiếc. Vì vậy, việc quy định mức xử phạt như hiện tại là chưa phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi.
Từ đó, chúng tôi thấy rằng, cần nâng mức phạt quy định đối với hành vi vi phạm để tăng sức răn đe, giáo dục với các chủ thể trong xã hội. Ít nhất ở thời điểm hiện tại thì mức xử phạt thấp nhất nên bằng mức xử phạt được quy định tại Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện trước đây, với mức cao nhất đối với cá nhân là 15.000.000 đồng và tổ chức là 30.000.000 đồng, đối với tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội là 50.000.000 đồng. Tuy đây là một văn bản đã hết hiệu lực, đã được thay thế bằng một văn bản khác nhưng mức phạt được xác định trong văn bản này nên được kế thừa và phát huy về tính nghiêm minh đối với hành vi vi phạm. Việc nâng mức phạt trong thời điểm hiện tại từ sức nóng của các vụ việc đang xảy ra gần đây sẽ đánh vào tâm lý của chính những người thực hiện hành vi vi phạm, từ đó tăng sức răn đe đồng thời nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục tư tưởng cho người dân về mức độ nghiêm trọng và tính vi phạm của hành vi. Qua đây người dân sẽ thấy được hành vi nhỏ nhặt của mình trên mạng xã hội có tác động xấu như thế nào, có tác hại ra sao và bị pháp luật nghiêm cấm như thế nào qua đó biết tiết chế, kiểm soát, giới hạn hành vi của mình.
Ngoài ra, vấn đề về phân hóa trách nhiệm. Hiện nay trong các quy định về chế tài hành chính đối với tin giả thì chưa có sự phân hóa về mức độ vi phạm của hành vi. Như đã biết, các hành vi khác nhau luôn có sự tác động khác nhau tới các chủ thể bị xâm hại, tính gây hại của chúng là khác nhau, tính chất và mức độ nguy hiểm của chúng là khác nhau. Mà hiện nay chế tài hành chính đối với tin giả là phạt tiền và khung phạt tiền là một khung áp dụng cho các hành vi vi phạm. Nhưng thực tế sự tăng nặng hay giảm nhẹ trong một khung hình phạt phụ thuộc vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hành chính chứ không căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Như vậy, hành vi có tính nguy hiểm ít cũng bị xử lý như hành vi có tính nguy hiểm cao và nó có tính chất cào bằng.
Trên phương diện mạng xã hội, một tin giả được đăng lên với lượt truy cập và tiếp cận nhiều, tất nhiên tính lan truyền, phổ biến và tác động của tin giả sẽ lớn hơn so với một tin giả có lượng truy cập, tiếp cận và tương tác thấp. Người có lượng theo dõi lớn, có giá trị phát ngôn cao với lượng truy cập cao thì hành vi với tin giả của người này sẽ nguy hiểm hơn so với một người thông thường. Từ đó cần có sự phân hóa rõ ràng về mức độ nguy hiểm của các hành vi với nhau nhằm đưa ra những mức chế tài xử lý phù hợp. Theo quan điểm của chúng tôi, căn cứ của sự phân hóa nên dựa vào sự tác động và lan truyền của thông tin, tức là sự phổ biến của tin giả tới đối tượng tiếp nhận thông tin. Một tin giả có nguy hiểm hay không cần căn cứ vào sự tác động của nó tới nhận thức của đối tượng tiếp nhận có lớn hay không, từ đó sự phổ biến và sự tương tác của các chủ thể trên mạng xã hội đối với tin giả chính là thước đo cho sự nguy hiểm của tin giả và hành vi đối với tin giả đó. Căn cứ này hoàn toàn có thể xác định được khi mà trên mạng xã hội luôn có những chỉ số để đánh giá sự phổ biến của thông tin đăng tải trên cộng đồng mạng xã hội như: lượt xem, lượt like, share, comment.
Do đó khi phân hóa trách nhiệm hành vi thì căn cứ vào độ phổ biến của tin giả được đánh giá bằng các chỉ số tương tác trên mà ta phân hóa được tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi, từ đó có mức xử phạt phù hợp, qua đó khắc phục sự bất cập đối với hành vi có tính phổ biến thấp (tính nguy hiểm ít lại bị xử như hành vi có tính phổ biến cao, tính nguy hiểm lớn).
Kết luận
Trên thực tế, mạng xã hội đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực, tuy nhiên, vẫn tồn tại những tiêu cực như: cá nhân lợi dụng mạng xã hội để đăng thông tin sai sự thật, hoặc có ứng xử thiếu văn hóa. Xây dựng không gian mạng lành mạnh, bảo đảm tốt các hoạt động thông tin, tuyên truyền và định hướng dư luận xã hội là một mục tiêu quan trọng. Đứng trước nhiều thách thức, khó khăn, muốn hoàn thành mục tiêu quan trọng này, đòi hỏi phải có những giải pháp nhằm chấn chỉnh. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật xử lý tin giả trên mạng xã hội là vấn đề đặt ra cấp bách hiện nay. Đảng và Nhân dân cần xây dựng một không gian mạng xã hội văn minh, hiện đại, nói không với tin giả. Chúng tôi hy vọng rằng, bài viết này sẽ góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật nhằm đẩy lùi vấn nạn tin giả trên mạng xã hội trong thời gian tới./.